Thực hiện bởi Phạm Văn Toàn, Võ Phượng Hồng Loan, Zita Sebesvari và Fabrice Renaud
Trong 3 khu vực nghiên cứu thuộc dự án WISDOM, 2 khu vực đã được chọn để thực hiện nghiên cứu về việc quan trắc và mô hình hóa thuốc BVTV. Điểm thí nghiệm thứ nhất thuộc phường Ba Láng, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ và điểm thí nghiệm thứ hai nằm ở xã An Long, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp. Hai địa điểm này khác nhau về tình hình sử dụng đất, việc quản lý nước và cách thức sử dụng thuốc BVTV.
Hình 1: Địa điểm nghiên cứu. Bản đồ chỉnh sửa theo DLR
Điểm nghiên cứu ở phường Ba Láng (quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ)
Khu vực nghiên cứu này nằm ở ngoại ô thành phố Cần Thơ và được tưới tiêu thông qua hệ thống sông Cần Thơ và các chi lưu của nó. Đây là khu vực cung cấp rau màu và cây ăn trái quan trọng cho thành phố Cần Thơ, thành phố lớn nhất của lưu vực sông Mekong.
Địa điểm nghiên cứu là một vùng có diện tích khoảng 6 hecta, có ranh giới rõ ràng với loại hình canh tác đa dạng. Điểm này nằm dọc theo hai bờ của rạch Cái Đôi, một nhánh của sông Ba Láng. Sự liên hệ mật thiết với nông dân địa phương, sự ghi nhận về thời điểm phun thuốc BVTV và kế hoạch sử dụng đất cho phép hiểu biết tốt hơn về tình hình quản lý thuốc BVTV. Đây là những thông tin quan trọng cho cả hai phần quan trắc và mô hình hóa thuốc BVTV.
Trong khu vực nghiên cứu này có 13 ruộng được canh tác bởi các nông hộ khác nhau. Tháng 6 năm 2008, khoảng 55% diện tích của vùng được trồng lúa nước và 45% diện tích còn lại được phân bố gần như đồng đều cho rau màu và cây ăn trái. Các ruộng này được lấy nước vào và xả nước ra rạch Cái Đôi bằng những ống nhựa hoặc các cống rãnh tự nhiên và được ngăn cách với nhau bởi những bờ thửa nhỏ.
Để quan trắc thuốc BVTV, 15 mẫu nước (bao gồm 13 mẫu được lấy tại các miệng cống, một mẫu ở ranh giới đầu và một mẫu ở cuối của rạch Cái Đôi) được lấy 3 tuần 1 lần và nồng độ của 12 hợp chất thuốc BVTV được phân tích. Bên cạnh dư lượng thuốc BVTV, độ pH, nhiệt độ, độ dẫn điện (EC), hàm lượng oxy hòa tan, lưu tốc cũng được xác định ở tất cả các thời điểm lấy mẫu. Bên cạnh hoạt động quan trắc thuốc BVTV định kỳ, những đợt lấy mẫu ngay sau những sự kiện phun thuốc cũng được tiến hành.
Hình 2: Ảnh được chụp bởi Zita Sebesvari
Điểm nghiên cứu ở xã An Long
Điểm nghiên cứu này nằm ở phía đông bắc xã An Long với tổng diện tích khoảng 8.5 hecta. Khu vực này chỉ trồng lúa nước với hai vụ lúa một năm. Vụ thứ nhất được trồng từ tháng 11 hoặc tháng 12 đến tháng 3 (vụ Đông Xuân) và vụ thứ hai được trồng từ tháng 4 hoặc tháng 5 đến tháng 7 hoặc tháng 8 (vụ Hè Thu). Vùng này bị ảnh hưởng bởi nước nổi trong mùa mưa. Mùa nước nổi thường bắt đầu từ tháng 8 hoặc tháng 9 và kết thúc vào tháng 11.
Tương tự như ở phường Ba Láng, một diện tích với 13 ruộng lúa có vùng phân cách rõ ràng đã được chọn làm điểm quan trắc và mô hình hóa thuốc BVTV. Việc cung cấp nước cho ruộng lúa này nhờ vào một kênh thủy lợi nhỏ, kênh này xả nước vào kênh An Long 2. Những ruộng lúa này được ngăn cách với nhau bởi những bờ thửa nhỏ. 14 mẫu nước (bao gồm 12 mẫu từ các miệng cống, một mẫu ở ranh giới đầu nguồn và một mẫu ở cuối nguồn của kênh thủy lợi trong vùng thí nghiệm) được lấy 6 tuần 1 lần và 12 hợp chất thuốc BVTV được phân tích. Bên cạnh nồng độ dư lượng thuốc BVTV, độ pH, nhiệt độ, độ dẫn điện (EC), hàm lượng oxy hòa tan, lưu tốc cũng được xác định ở tất cả các thời điểm lấy mẫu.
Hình 3: Ảnh được chụp bởi Zita Sebesvari